Đánh giá các liệu pháp tâm lý

Giả sử bạn đã nhận ra một vấn đề trong cuộc sống mà bạn tin rằng có thể được giảm bớt bằng cách tham vấn và trị liệu với một nhà lâm sàng được đào tạo.

Làm sao bạn có thể biết kiểu trị liệu nào sẽ có tác dụng tốt nhất trong việc giảm bớt khổ não của bạn? Làm sao bạn có thể chắc chắn rằng bất kỳ kỹ thuật trị liệu nào sẽ có tác dụng với bạn? Phần này nói về các dự án nơi các nhà nghiên cứu cam kết kiểm tra tính hiệu quả của các các liệu pháp và so sánh giữa các liệu pháp khác nhau.

Mục tiêu chung là khám phá ra cách hiệu quả nhất để giúp bệnh nhân vượt qua khó khăn. Nghiên cứu này cũng xác định một số yếu tố chung cho tất cả các liệu pháp thành công. Ta cũng sẽ xem xét một cách ngắn gọn chủ đề phòng ngừa (prevention): Các nhà tâm lý học có thể can thiệp vào cuộc sống của mọi người như thế nào để ngăn chặn bệnh tâm thần trước khi nó xảy ra?

Đánh giá hiệu quả điều trị

Nhiều năm trước, nhà tâm lý học người Anh Hans Eysenck (1952) đã tạo ra một cơn thịnh nộ trong giới trị liệu bằng cách tuyên bố rằng liệu pháp tâm lý hoàn toàn không có tác dụng! Ông đã xem xét các ấn phẩm hiện có báo cáo tác dụng của các liệu pháp khác nhau và nhận thấy rằng những bệnh nhân không được điều trị có tỷ lệ hồi phục cao ngang với những người nhận được liệu pháp phân tâm học hoặc các hình thức trị liệu giúp thấu hiểu vấn đề khác. Ông tuyên bố rằng: gần 2/3 số người có vấn đề về thần kinh sẽ hồi phục một cách tự nhiên trong vòng hai năm kể từ khi bắt đầu vấn đề.

Các nhà nghiên cứu đã đối mặt với thách thức của Eysenck bằng cách nghĩ ra nhiều  phương pháp luận chính xác hơn để đánh giá tính hiệu quả của liệu pháp.

Điều mà lời chỉ trích của Eysenck đã làm rõ là các nhà nghiên cứu cần có các nhóm đối chứng thích hợp. Vì nhiều lý do, một số tỷ lệ cá nhân nhận liệu pháp tâm lý thực sự cải thiện mà không cần bất kỳ sự can thiệp chuyên môn nào. Hiệu ứng thuyên giảm tự phát (spontaneous-remission effect) là một trong những tiêu chí cơ bản  mà tính hiệu quả của các liệu pháp phải được đánh giá đối với nó. Nói một cách đơn giản, việc làm điều gì đó phải được cho thấy là có dẫn đến một phần trăm các trường hợp được cải thiện hơn là không làm gì.

Tương tự, các nhà nghiên cứu thường cố gắng chứng minh rằng việc điều trị của họ không chỉ là tận dụng lợi thế từ việc kỳ vọng được chữa lành của chính khách hàng. Nhiều cuộc thảo luận về hiệu ứng giả dược (placebo effect) cho thấy: Trong nhiều trường hợp, sức khỏe tinh thần hoặc thể chất của mọi người sẽ cải thiện bởi vì họ mong đợi rằng nó sẽ được cải thiện.

Tình huống điều trị giúp củng cố niềm tin này bằng cách đặt nhà trị liệu trong vai trò xã hội cụ thể của người chữa bệnh (healer) (Frank & Frank, 1991). Mặc dù tác dụng giả dược của liệu pháp là một một phần của can thiệp trị liệu, các nhà nghiên cứu thường mong muốn chứng minh rằng hình thức trị liệu cụ thể của họ hiệu quả hơn liệu pháp giả dược (một liệu pháp trung tính chỉ tạo ra kỳ vọng đượ chữa lành) (Hyland và cộng sự, 2007).

Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu đã đánh giá tính hiệu quả điều trị của liệu pháp  bằng cách sử dụng một kỹ thuật thống kê được gọi là phân tích tổng hợp (meta-analysis).

Phân tích tổng hợp mang lại một cơ chế chính thức để phát hiện ra các kết luận chung được tìm thấy trong dữ liệu từ nhiều thí nghiệm khác nhau. Trong nhiều thí nghiệm tâm lý, nhà nghiên cứu hỏi, “Hầu hết những người tham gia của tôi có cho thấy hiệu quả mà tôi đã dự đoán không?”

Phân tích tổng hợp xử lý các thí nghiệm như những người tham gia. Với sự tôn trọng về tính hiệu quả của liệu pháp, nhà nghiên cứu hỏi, “Hầu hết các kết quả nghiên cứu có cho thấy những thay đổi tích cực không?”

Đánh giá điều trị cho bệnh trầm cảm:

Hình này hiển thị kết quả từ các phân tích tổng hợp về phương pháp điều trị trầm cảm. Đối với mỗi phương pháp điều trị, con số trình bày tỷ lệ phần trăm bệnh nhân thường phản ứng với mỗi loại điều trị. Ví dụ: khoảng 50% bệnh nhân dùng thuốc chống trầm cảm trải nghiệm sự giảm nhẹ triệu chứng một cách dễ nhận biết, trong khi 50% thì không.

Hình trên trình bày kết quả phân tích tổng hợp các tài liệu nghiên cứu về các phương pháp điều trị trầm cảm (Hollon và cộng sự, 2002). Hình so sánh kết quả của ba loại liệu pháp tâm lý và thuốc (tính trung bình qua các loại thuốc chống trầm cảm khác nhau) đến các phương pháp điều trị giả dược.

Trị liệu liên cá nhân đặt trọng tâm vào cuộc sống hiện tại của bệnh nhân và các mối quan hệ giữa các cá nhân. Trên tất cả các nghiên cứu được xem xét trong các phân tích tổng hợp nhằm góp phần vào con số này, liệu pháp liên cá nhân, liệu pháp nhận thức-hành vi và liệu pháp điều trị bằng thuốc có tác động hơn so với giả dược. Liệu pháp tâm động học cổ điển không đạt kết quả tốt, ít nhất là trong việc điều trị trầm cảm.

Lưu ý rằng những dữ liệu này phản ánh tác động của từng loại điều trị đơn thuần. Các nhà nghiên cứu đã đánh giá hiệu quả của liệu pháp tâm lý đơn thuần so với liệu pháp tâm lý kết hợp với điều trị bằng thuốc. Một nghiên cứu cho thấy hầu hết các liệu pháp kết hợp có thể mang lại sự thuyên giảm hoàn toàn khỏi bệnh trầm cảm mãn tính (Manber và cộng sự, 2008). Trong số những người tham gia đã hoàn thành một liệu trình điều trị, 14% những người tham gia chỉ nhận được điều trị bằng thuốc, đáp ứng tiêu chí của nghiên cứu về sự thuyên giảm hoàn toàn, cũng như 14% những người tham gia chỉ nhận được liệu pháp tâm lý.

Đối với những người tham gia nhận được cả liệu pháp điều trị bằng thuốc và liệu pháp tâm lý, 29% cho thấy mức độ cải thiện như nhau.

Do những phát hiện như vậy, các nhà nghiên cứu đương đại ít quan tâm đến việc hỏi liệu liệu pháp tâm lý có hiệu quả hay không và quan tâm hơn đến việc hỏi tại sao nó có tác dụng và phương pháp điều trị nào là hiệu quả nhất cho vấn đề cụ thể nào và đối với loại bệnh nhân nào (Goodheart và cộng sự, 2006). Ví dụ, nhiều đánh giá điều trị đã được thực hiện trong bối cảnh nghiên cứu đủ khả năng kiểm soát hợp lý đối với bệnh nhân (thông thường, các nghiên cứu loại trừ những cá nhân có nhiều hơn một chứng rối loạn) và các quy trình (các nhà trị liệu được đào tạo nghiêm ngặt để giảm thiểu sự khác biệt trong điều trị). Các nhà nghiên cứu cần đảm bảo rằng các liệu pháp hoạt động trong môi trường nghiên cứu cũng hoạt động trong môi trường cộng đồng, trong đó bệnh nhân và nhà trị liệu có các triệu chứng và trải nghiệm đa dạng hơn (Kazdin, 2008).

Vấn đề quan trọng khác đối với nghiên cứu đánh giá là đánh giá khả năng các cá nhân sẽ hoàn thành một đợt điều trị. Trong hầu hết mọi trường hợp, một số người chọn ngừng phương pháp điều trị (Barrett và cộng sự, 2008). Các nhà nghiên cứu tìm cách hiểu ai bỏ điều trị và tại sao — với hy vọng cuối cùng sẽ tạo ra các phương pháp điều trị mà hầu hết mọi người đều có thể tuân thủ.

Vân Anh dịch và tổng hợp

Nguồn: Tâm lý học và đời sống, Richard J. Gerrig, Philip G. Zimbardo, bản in thứ 16, 2002, Pearson Education Inc, bản dịch 2020 của Van Lang Culture JSC. Người dịch Kim Dân

Psychology and life, Richard J. Gerrig, 20th Edition, 2013, Pearson Education Inc

Bản quyền bài viết thuộc về Viện Tâm Lý Học & Truyền Thông. Khi chia sẻ, cần phải trích dẫn nguồn đầy đủ tên tác giả và nguồn là “Nguồn: Viện Tâm Lý Học & Truyền Thông”. Các bài viết trích nguồn không đầy đủ, đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.
Fanpage Viện Tâm Lý Học & Truyền Thông: https://www.facebook.com/InstituteofPsychologyandMedia

Vân Anh Nguyễn

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Lên đầu trang